Hiện nay, việc giao dịch “bất động sản” đã trở nên quen thuộc và phổ biến. Tuy nhiên, để thực sự hiểu rõ bất động sản là gì và các đặc điểm cơ bản của bất động sản hay thị trường bất động sản Việt Nam thì không phải ai cũng hiểu rõ. Cùng GreenHousing đi vào bài viết sau đây để có cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề nói trên.
Bất động sản là gì? Phân loại bất động sản.
Bất động sản là gì?
Bất động sản là một thuật ngữ, trong tiếng anh được viết thành “real property” hoặc “real estate” và mang tính chất trái ngược với “động sản” (tiếng anh là “Personal property”). Ở mỗi quốc gia khái niệm bất động sản (BĐS) có sự khác nhau và có nét đặc thù riêng. Tuy nhiên, các nước trên toàn cầu vẫn thống nhất chung khái niệm bất động sản bao gồm toàn bộ đất đai và những phần tài sản gắn liền với đất đai.
Trong điều 107 bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam quy định như sau:
Điều 107. Bất động sản và động sản
Bất động sản bao gồm:
- a) Đất đai;
- b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
- c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
- d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Như vậy, mặc dù không có khái niệm, định nghĩa cụ thể về bất động sản. Nhưng thông qua những quy định nêu trên thì ta có thể hiểu bất động sản chính là một dạng tài sản gồm có những loại thường gặp như đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai,…
Phân loại bất động sản
Hiện nay có 2 cách phân loại bất động sản phổ biến như sau:
Cách thứ nhất: Phân chia theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), bất động sản có thể phân thành 3 loại :
- Bất động sản có đầu tư xây dựng:
Gồm những bất động sản chính như sau:- Bất động sản nhà đất ( bao gồm đất đai và các tài sản gắn liền với đất đai ). Nhóm bất động sản nhà đất là nhóm cơ bản, tỷ trọng rất lớn, tính phưc tạp cao, chiếm tuyệt đại đa số các giao dịch trên thị trường bất động sản của một nước.
- Bất động sản nhà xưởng và công trình thương mại – dịch vụ.
- Bất động sản hạ tầng, bất động sản trụ sở làm việc, v..v..
- Bất động sản không đầu tư xây dựng:
- Đất nông nghiệp
- Đất nuôi trồng thủy sản
- Đất làm muối
- Đất hiếm
- Đất chưa sử dụng
- Bất động sản đặc biệt:
- Các công trình bảo tồn quốc gia
- Di sản văn hóa vật thể
- Nhà thờ họ, đình chùa, miếu mạo.
- Nghĩa trang, …
Cách thứ hai: Theo điều 174 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, bất động sản gồm 4 loại như sau:
- Đất đai.
- Nhà ở và các công trình khác gắn liền với đất đai.
- Tài sản khác gắn liền với đất đai.
- Tài sản gắn liền với nhà ở và công trình xây dựng gắn liền với đất đai.
Trong các loại bất động sản trên, ba loại đầu là các loại bất động sản do bản chất ( do bản chất không thể di dời được, không tự di dời được, như là đất đai và tất cả những gì gắn liền với đất ).
Loại bất động sản cuối cùng là tài sản gắn liền với nhà ở và công trình xây dựng gắn liền với đất đai, là những vật có thể di dời được tuy nhiên về mặt pháp lý vẫn được coi là bất động sản.
Đặc điểm của bất động sản.
Bên cạnh khái niệm bất động sản là gì, phân loại ra sao, để tìm hiểu về bất động sản một cách rõ nét, không thể không nhắc đến những đặc điểm cơ bản của loại hình này.
Tính bất động
Đất đai là hàng hóa đặc biệt, dù được đem chuyển nhượng, bán nhưng chỉ được quyền sử dụng và khai thác, không thể chuyển bất động sản đó đến nơi họ muốn, đến nơi mà họ sinh sống. Quyền sử dụng đất nằm trong thị trường bất động sản vị trí của đất đai gắn liền với điều kiện sinh thái, kinh tế xã hội và tác động đến phương thức sử dụng đất và giá đất, đó chính là nguyên nhân tại sao giá đất lại khác nhau dù ở vị trí kế cận.
Tính không đồng nhất
Mỗi người sinh ra trên trái đất đều cần một chỗ ở. Đất ở gắn liền với đời sống con người như thế nào có ảnh hưởng đến quan điểm và cách nhìn vào vấn đề của mỗi đối tượng mua, kể cả nhu cầu của họ nữa. Trong thời kì bao cấp cũng như trong thời kì mới, phát triển nền kinh tế thị trường, hàng hóa rất đa dạng và phức tạp nên khó có thể tìm được hai tài sản hoàn toàn giống nhau mà nó chỉ tương đồng về đặc điểm; chính vì vậy, giá cả của bất động sản gắn liền với đặc điểm của mỗi tài sản.
Giả sử hai bất động sản nằm trong cùng một khu vực nhưng giá cả của chúng phụ thuộc vào thời điểm bán như thế nào, người mua có thích hay không, tâm lý của người mua lúc đó như thế nào và đặc điểm cụ thể của bất động sản đó nữa, tất cả những điều này chứng minh cho sự không đồng nhất đối với bất động sản và nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Tính Chất Cá Biệt Và Khan Hiếm
Bất động sản là tài sản liên quan đến đất đai, do đó, nó có tính chất khan hiếm. Bởi đất là tài nguyên có hạn, ngày trở nên ít đi khi quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Cụ thế, đặc tính khan hiếm của bất động sản được biểu hiện thông qua sự giới hạn về diện tích đất đai, giới hạn vị trí khu vực – lãnh thổ.
Do không thể di dời bất động sản, kết hợp với sự khan hiếm khiến chúng được còn coi là “hàng hóa” có tính cá biệt. Bên cạnh đó, sự cá biệt còn bởi vị trí, các yếu tố tác động tới từng tài sản bất động sản là khác nhau, tính chất bất động sản cũng là không tương đồng.
Tính Lâu Bền
Bất động sản là đất đai có tính lâu bền và gần như không thể phá hủy (ngoại trừ các ảnh hưởng đến từ thiên tai). Với tài sản liên quan đến đất đai như công trình cũng có thể tồn tại trong vài năm, chục năm hoặc lâu hơn thế. Khi xảy ra hỏng hóc đều có thể nâng cấp, sửa chữa và tái sử dụng dài hạn.
Do đó, tính lâu bền của bất động sản là chỉ đến tuổi thọ của công trình và các kiến trúc liên quan. Trong đó, tuổi thọ bất động sản lại được chia thành “tuổi thọ kinh tế” và “tuổi thọ vật lý”.
- Tuổi thọ kinh tế ngắn hơn so với tuổi thọ vật lý, có thể chấm dứt ngay trong hoạt động bình thường của thị trường bất động sản.
- Tuổi thọ vật lý mang lại lợi ích dài hạn và giá trị kinh tế cao hơn. Vì nó chỉ chấm dứt khi công trình hay các kết cấu kiến trúc bị hư hỏng, không thể khắc phục.
Nhờ đặc tính bền lâu, tài sản bất động sản được ứng dụng với nhiều mục đích khác nhau, phong phú, đa dạng và không bao giờ vơi cạn.
Tính Tương Tác Và Chịu Ảnh Hưởng Lẫn Nhau
Bất động sản là dạng “hàng hóa” có thể tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Sự thay đổi giá trị của một bất động sản nào đó có thể làm tăng hoặc giảm giá trị của một bất động sản liên quan. Đây là tính chất được nhiều nhà đầu tư sử dụng để làm tăng giá trị bất động sản để đem lại nhiều hơn các lợi ích về kinh tế.
Ví dụ: Trong một dự án nhà đất, khi hệ thống cầu đường, cảnh quan được sửa chữa, nâng cấp, tăng tính tiện nghĩ sẽ giúp giá mua/bán địa ốc tại khu vực đó thu hút khách hàng và có mức giá hấp dẫn hơn.
Các loại hình bất động sản.
Hiện trên thị trường Bất động sản tại Việt Nam, khá đa dạng loại hình từ bình dân đến cao cấp với các mức giá khác nhau, đáp ứng nhu cầu mua của nhiều người.
- Nhà ở riêng lẻ: là nhà ở được xây dựng trên một mảnh đất riêng biệt, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình hoặc tổ chức.
- Căn hộ chung cư: là các tòa nhà có nhiều tầng, căn hộ với lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng, tiện ích, phục vụ chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức.
- Nhà phố, biệt thự dự án: được xây dựng và thiết kế sát gần nhau tạo nên một tổng thể kiến trúc thống nhất. Loại hình này được xây dựng kết hợp kết hợp cùng các tiện ích như trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, mua sắm,… như một đô thị thu nhỏ.
- Đất nền dự án: là những lô đất nằm trong một dự án được chủ đầu tư quy hoạch. Những khu đất trong dự án này chưa được tiến hành xây dựng hoàn thiện, vẫn còn ở những giai đoạn ban đầu thực hiện.
- Biệt thự nghỉ dưỡng: thường được xây dựng gần các địa điểm du lịch, ven biển, vùng núi nhằm phục vụ cho hoạt động nghỉ dưỡng, thư giãn. Thiết kế biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, sang trọng, độc đáo với đầy đủ các tiện ích tiện nghi.
- Condotel: là từ viết tắt của condo và hotel có nghĩa là căn hộ chung cư kết hợp căn hộ khách sạn. Đây là một tòa nhà chung cư được vận hành giống như một khách sạn, có lễ tân, nhân viên, các phòng được đặt dưới dạng cho thuê ngắn hạn giống như khách sạn. Căn hộ condotel cũng có các tiện nghi phong cách nghỉ dưỡng như hồ bơi, bồn tắm, phòng tập thể dục, nhà hàng,…
- Shophouse: là mô hình nhà phố thương mại, kết hợp giữa nhà ở với kinh doanh buôn bán, thiết kế thường từ 2 tầng trở lên. Vị trí của shophouse có thể đặt ở trục đường lớn hoặc đặt ngay dưới chân các tòa chung cư sang trọng, khu dân cư đông đúc.
- Officetel: mô hình kết hợp văn phòng cho thuê với khách sạn. Loại hình căn hộ đa năng với công năng sử dụng vừa để ở vừa làm văn phòng, diện tích thường thấy 30m2–50m2.
- Nhà xưởng: là nhà công nghiệp, có diện tích và quy mô lớn hơn nhiều so với nhà ở, văn phòng, là nơi chứa đựng, bảo quản hàng hóa trong khi chờ vận chuyển đến bộ phận, khu công nghiệp khác hay phân phối ra thị trường. Đầu tư nhà xưởng bán hoặc cho thuê hiện là loại hình đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia.
- Hoa viên nghĩa trang: Đây là khu đất nghĩa trang an táng người chết và là nơi tiến hành các hoạt động tưởng nhớ người đã khuất. Không gian này được quy hoạch bài bản với cảnh quan, cây xanh như một khu công viên nghĩa trang cao cấp.
Một số thuật ngữ và khái niệm liên quan đến bất động sản
- Thị trường bất động sản: nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh liên quan đến bất động sản như chuyển nhượng, mua bán, cho thuê,.. tại một khu vực địa lí nhất định, trong một khoảng thời gian cụ thể.
- Cung, cầu bất động sản: Cung bất động sản có thể hiểu là lượng nhà đất cần bán hoặc cho thuê tại một thời điểm trên thị trường. Cầu bất động sản là lượng nhu cầu cần mua thuê nhà đất tại một thời điểm nào đó trên thị trường.
- Kinh doanh bất động sản: là việc đầu tư nguồn vốn nhằm thực hiện hoạt động mua bán, chuyển nhượng, xây dựng, cho thuê, môi giới bất động sản hay các dịch vụ tư vấn – hỗ trợ bất động sản,… nhằm mục đích sinh lời.
- Giá bất động sản: gồm có 2 loại là giá thị trường hình thành theo biến động của thị trường, là thỏa thuận giữa người mua và bán về giá trị của bất động sản đó, dựa trên quy luật cung cầu, quy luật giá trị và các yếu tố quản lý của nhà nước. Và giá nhà nước do UBND tỉnh thành phố ban hành, giá này thay đổi theo từng năm và được dùng làm cơ sở tính thuế trong việc chuyển nhượng nhà đất.
- Sàn giao dịch bất động sản: là nơi cung cấp các dịch cho hoạt động kinh doanh bất động sản như mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản. Đây là một mô hình hoạt động rất khắt khe, phải đảm bảo đáp ứng tuyệt đối những quy định của pháp luật.
- Bong bóng bất động sản: là hiện tượng giá bất động sản được tăng lên nhanh, quá mức không đúng so với giá trị thực. Khi giá trị của bất động sản được nâng lên quá cao so với giá trị thật thì đến một thời điểm tính thanh khoản của sản phẩm không còn, nguồn cung lớn hơn cầu, giá trị bất động sản bị giảm, thị trường rơi vào tình trạng đóng băng (vỡ bong bóng bất động sản).
- Pháp lý bất động sản: là những loại giấy tờ chứng minh sự hợp pháp của bất động sản. Như đối với đất nền, nên lưu tâm đến một số giấy tờ pháp lý bất động sản như bản đồ quy hoạch chi tiết 1/500; giấy phép xây dựng, sổ hồng quỹ đất,.. Còn đối với nhà đất, người mua cần kiểm tra thời hạn sử dụng đất, chủ sở hữu, xác định nhà đất có đang tranh chấp không?…
Thị trường bất động sản Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới từ năm 1986 thì thị trường bất động sản cũng manh nha. Tuy nhiên, thị trường bất động sản Việt Nam được cho là chính thức hình thành kể từ năm 1993, sau khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai đầu tiên và Pháp lệnh Nhà ở, tạo khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở.
Giai đoạn năm 1993-1994
Cơn sốt đầu tiên diễn ra trong bối cảnh Luật Đất đai năm 1993 ra đời cho phép việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất dễ dàng hơn. Đây được xem là thời hoàng kim của tăng trưởng kinh tế khi GDP năm 1993 tăng tới 8,1%, năm 1994 tăng 8,8% và đỉnh điểm năm 1995 tăng 9,5%. Tăng trưởng mạnh của GDP khiến người ta tin vào tương lai xán lạn của nền kinh tế, thúc đẩy giá nhà đất tăng mạnh.
Giai đoạn năm 1995-1999
Nhà nước Việt Nam ban hành 2 nghị định là Nghị định số 18 và 87 về thuê đất, nhằm ngăn chặn hiện tượng đầu cơ, điều tiết thị trường. Theo đó, người sử dụng đất phải trả tiền hai lần (tiền chuyển quyền sử dụng đất và tiền thuê đất). Hai nghị định này buộc các nhà đầu cơ sử dụng đòn bẩy tài chính để tham gia thị trường phải bán tháo đất đai đang nắm giữ để trả tiền cho Ngân hàng. Làn sóng xả hàng ồ ạt diễn ra đã làm cho thị trường bất động sản ở trạng thái cung vượt cầu và quay đầu lao dốc.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế châu Á khởi nguồn từ Thái Lan đã làm cho một số dự án bất động sản của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thất bại, góp phần làm cho thị trường suy thoái.
Giai đoạn năm 2001-2003
Từ năm 2000, giá nhà đất bắt đầu biến động và đạt đỉnh cao vào khoảng Quý 2/2001. Giá BĐS của Việt Nam giai đoạn này ở mức đắt nhất thế giới, cao hơn cả một số thành phố lớn của các nước công nghiệp phát triển.
Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật đầu tư nước ngoài năm 2001 ra đời. Nhà đầu tư đánh giá chủ trương cho Việt kiều mua nhà và ban hành giá đất mới sẽ có triển vọng cho thị trường nhà đất nên nhiều người đầu tư mua đất khắp nơi ở vùng ven.
Cơn sốt chủ yếu tập trung vào nhà mặt tiền và đất dự án. Đầu cơ gia tăng mạnh mẽ. Giao dịch mua bán sôi động nhưng không có công trình hay nhà ở nào được xây dựng, thể hiện đây là cơn sốt từ nhu cầu ảo, giá ảo.
Giai đoạn năm 2003-2006
“Luật Đất đai 2003” và “Nghị định 181” với quy định “dự án phải xây dựng nhà xong mới được bán” đã chấm dứt tình trạng “phân lô bán nền” đã tác động mạnh đến thị trường BĐS. Thị trường đất nền gần như tê liệt, cơn lốc đầu cơ lắng dần.
Từ cuối 2003, thị trường BĐS trầm lắng, năm sau lạnh hơn năm trước (năm 2003 giao dịch địa ốc thành công giảm 28%, năm 2004 giảm 56% và năm 2005 giảm 78%) nhưng giá không giảm mạnh do vốn đầu tư chủ yếu là tiền nhàn rỗi của tư nhân.
Năm 2005, bảng giá đất mới được điều chỉnh theo hướng sát với giá thực tế làm cho chi phí đền bù giải toả lên cao khiến các dự án tiếp tục gặp khó khăn. Lợi nhuận thu từ kinh doanh BĐS giảm mạnh khiến dòng vốn chuyển sang thị trường chứng khoán.
Giai đoạn năm 2007-2008
Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đón nhận làn sóng đầu tư lớn sau hội nhập, tăng trưởng tín dụng cao, thị trường chứng khoán phát triển cực thịnh. Nguồn vốn thặng dư lớn chuyển dịch từ thị trường chứng khoán sang thị trường BĐS.
Giá nhà đất tăng cao từ 50-70%, thậm chí lên tới 100%. Nhu cầu thị trường có sự chuyển đổi từ nhà mặt tiền, nhà phố sang căn hộ cao cấp và biệt thự.
Năm 2007, Luật Kinh doanh BĐS có hiệu lực, cùng sự ra đời của các hành lang pháp lý như Luật Đăng ký BĐS, Luật thuế sử dụng đất, Luật Nhà ở, chính sách áp dụng cho Việt kiều mua nhà,… giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi tham gia thị trường. Thị trường có sự tham gia đông đảo của giới đầu cơ lướt sóng.
Giai đoạn năm 2009-2013
Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kinh tế VN suy thoái, lạm phát và nợ xấu tăng nhanh (cả năm 2009 tăng 19,89%), lãi suất vay ngân hàng rất cao (23-24%/năm). Chính sách thắt chặt tín dụng của Chính phủ nhằm kiểm soát bong bóng BĐS và kiềm chế lạm phát khiến thị trường BĐS lập tức bị ảnh hưởng nặng nề. Giá BĐS giảm mạnh trung bình 40-50%.
Giai đoạn từ giữa 2009-2010, gói kích cầu của Chính phủ giúp thị trường BĐS ấm trở lại. Thị trường xuất hiện “cơn sốt” cục bộ, nhất thời do tác động của phương thức “mua bán nhà trên giấy”, dự án quy hoạch thủ đô mở rộng.
Từ nửa cuối năm 2011, “quả bóng” bất động sản bị “xì hơi” mạnh trên diện rộng, “lớp băng dày” bao phủ toàn thị trường. Nhiều cá nhân, doanh nghiệp bất động sản lao đao.
Giai đoạn năm 2014-2018
Thị trường bất động sản Việt Nam có dấu hiệu hồi phục từ cuối năm 2013 và phát triển ổn định: Lượng giao dịch tăng, tồn kho giảm, cơ cấu hàng hóa bất động sản chuyển dịch theo hướng hợp lý, phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường.
Năm 2014, Luật kinh doanh BĐS ra đời mở rộng cơ hội cho người nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Giai đoạn này thị trường xuất hiện nhiều loại hình BĐS mới gia nhập như: Officetel, condotel, shophouse, BĐS công nghiệp.
Trong năm 2018, thị trường xảy ra các đợt sốt đất lan rộng tại nhiều khu vực trên cả nước: sốt ảo giá đất nền, đất nông nghiệp tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc; giá đất tăng mạnh ở các quận vùng ven TP.HCM rồi lan rộng ra các tỉnh vùng ven như Đồng Nai, Bình Dương, Long An và các tỉnh, thành miền Trung như Khánh Hòa, Bình Định, Đà Nẵng, Nghệ An, Thanh Hóa,…
Giai đoạn năm 2019-2022
Đầu 2019, sốt đất tiếp tục bùng phát ở nhiều địa phương: Đà Nẵng (huyện Hòa Vang), Quảng Nam, TP.HCM (Cần Giờ, quận 9), Hà Nội (Hoài Đức, Gia Lâm, Đông Anh). Tuy nhiên các cơn sốt qua rất nhanh, thị trường tại các khu vực này nhanh chóng rơi vào trầm lắng.
Năm 2019, ở góc nhìn toàn cảnh, thị trường BĐS vẫn trong chu kỳ phục hồi, tăng trưởng nhưng có sự sụt giảm cả về nguồn cung và số lượng giao dịch. Nguyên nhân do quỹ đất ở khu vực trung tâm ngày càng cạn kiệt; thủ tục pháp lý bị trì hoãn; chính quyền rà soát, tạm dừng toàn bộ các dự án sai phạm.
Bước sang năm 2020, đại dịch toàn cầu Covid-19 tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và thị trường BĐS. Nguồn cung tiếp tục khan khiếm, giao dịch “lặng sóng”, giá đi ngang.
Hiện nay giá đất theo quy định Nhà nước cao nhất là đất ở thuộc bốn thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng. Ủy ban nhân dân TP. Hà Nội đã ban hành Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND về bảng giá các loại đất trên địa bàn thành phố áp dụng từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/12/2024. Theo đó giá đất ở đô thị cao nhất thuộc về một số tuyến phố thuộc quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, và Đống Đa. Giá đất cao nhất là các phố Lê Thái Tổ, Hàng Ngang và Hàng Đào thuộc quận Hoàn Kiếm.
Bảng giá đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2024 được UBND Thành Phố công bố (QĐ số 02/2020/QĐ-UBND) vào ngày 16/01/2020. Theo đó giá đất đắt nhất thuộc về một số phố ở quận 1 và quận 3. Cao nhất là giá đất thuộc đường Nguyễn Huệ, Đồng Khởi và Lê Lợi.
Bảng giá đất của Đà Nẵng và Hải Phòng. Cao nhất của Đà Nẵng thuộc về một số phố và đường thuộc quận Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Thanh Khê. Bảng giá đất của Hải Phòng cao nhất thuộc về một số phố thuộc quận Lê Chân, Hồng Bàng và Ngô Quyền.
Trên đây là những chia sẻ của GreenHousing về Bất động sản và thị trường bất động sản Việt Nam mà bạn có thể tham khảo. Hãy theo dõi Greenhousing.com.vn để biết thêm nhiều thông tin thú vị nhé.